Năm qua, trong một chương
trình truyền hình, dân châu Âu xếp Barcelona đứng đầu 10 thành phố đẹp
và dễ sống nhất thế giới, trên cả Paris lãng mạn, London kiêu hãnh,
Amsterdam thoải mái, New York của dân tứ xứ, Venice đẹp như tranh...
Barcelona với bờ biển trải
dài và nắng ấm gần như quanh năm quả là một thiên đường ở châu Âu lạnh
lẽo. Nhưng thủ phủ xứ Catalan chỉ bắt đầu nổi lên như một “hiện tượng”
từ năm 1987, khi được Ủy ban Olympic quốc tế chọn là thành phố chủ nhà
của Thế vận hội 1992. Từ đó Barcelona đã vượt qua cái bóng của thủ đô
Madrid và 40 năm đế chế Franco để trở thành một trong những thành phố
năng động nhất châu Âu.
Du khách đến Barcelona ngày đầu tiên thường tìm ngay đến Sagrada
Familia, kiến trúc bằng đá kiểu Gothic ngay ở trung tâm thành phố, tác
phẩm bất hủ của kiến trúc sư tài danh Antonio Gaudi, hơn một thế kỷ nay
vẫn chưa xây xong (*). Dù dở dang, Sagrada Familia trông vẫn tuyệt đẹp,
với những ngọn tháp nhọn vươn lên cao vút trên nền trời xanh nhiệt đới,
đứng cạnh bên có thể chiêm ngưỡng được những đường nét chạm khắc cực kỳ
tinh xảo.
Từ công trình thế kỷ ấy, tôi đến La Rambla, phố đi bộ dài rộng thênh
thang với hàng dãy các cửa hàng bán khăn, áo, mũ nón và đồ lưu niệm làm
bằng tay trông rất tinh xảo của dân địa phương và nhiều nơi khác trên
thế giới, bên cạnh những gánh hoa tươi muôn màu.
Tuy sinh hoạt đắt đỏ nhất Tây Ban Nha, vật giá ở Barcelona vẫn rất rẻ
so với những nước láng giềng Anh, Pháp, Đức, Ý... nên dân châu Âu qua
đây mua sắm nườm nượp, nhất là vào dịp cuối tuần. La Rambla rất xanh
với những hàng cây rợp bóng, và dù khách bộ hành luôn qua lại nhưng vẫn
sạch sẽ tinh tươm.
Thỉnh thoảng bên đường lại bắt gặp tiếng nhạc rộn rã phát ra từ những
cây đàn guitar của những nghệ sĩ lang thang (Tây Ban Nha vốn là cái nôi
của đàn guitar). Trên khu La Rambla, chợ Boqueria là một bữa tiệc cho
tất cả các giác quan: mắt thấy trái cây tươi rói, hải sản, thức ăn làm
sẵn... màu sắc thật hấp dẫn; mũi ngửi mùi thơm nhè nhẹ của trái cây
quyện mùi paella (món cơm truyền thống Tây Ban Nha trộn tôm, mực, sò,
thịt gà...) thơm phức; tay sờ những trái dâu chín mọng, đào và mơ mịn
màng còn nguyên những giọt sương buổi sớm; tai nghe tiếng rao hàng lẫn
tiếng người cười nói lao xao; và miệng nếm thử những món mứt kẹo ngọt
ngào mà người bán hào phóng đưa cho.
Nhưng thích nhất vẫn là những con đường nhỏ dọc theo La Rambla với
nhiều shop đồ lưu niệm mà những cô bán hàng đáng yêu luôn tươi cười vui
vẻ. Đường nhỏ vắng người nên yên tĩnh, có thể hít thở không gian buổi
chiều ấm áp và hương hoa thơm ngát từ những gánh hàng hoa tràn cả ra
ngoài.
Không có nhiều thời gian ở Barri Gotic, khu phố cổ từ thế kỷ 14 còn
nguyên những dấu vết xưa, nhưng tôi sẽ không quên những dây leo quấn
xanh rờn trên tường đá lối vào khu phố và những tia nắng cuối ngày dát
vàng thành cổ. Nhớ cả chiếc cầu treo bắc ngang hai tòa nhà với mái vòm
và lan can uốn lượn như chờ cô công chúa Tây Ban Nha đến ném quả cầu
chọn chồng trong truyện cổ tích ngày nào. Nhớ cả tiếng sáo huyền hoặc
ngân vang trong tĩnh lặng, chỉ có tiếng bước chân du khách nhón gót và
trò chuyện thật khẽ khàng.
Những nơi còn lại ở Barcelona không yên tĩnh. Trong những quán bia,
quán rượu khắp nơi, dân địa phương, du khách cũng như người nước ngoài
đang làm việc tại đây đua nhau nốc sangria (rượu đặc trưng Tây Ban Nha
có độ cồn rất cao, ngâm trái cây tươi như dâu, cam, đào, mơ...) như
nước lã. Khu Barceloneta mà Francesco, anh bạn người Tây Ban Nha gốc
Việt, dẫn chúng tôi tới ở gần bãi biển, trước đây là làng chài, sau nữa
là khu phố của ngư dân và ngày nay tràn ngập những nhà hàng hải sản
kiểu alfresco với khách ăn uống nhộn nhịp trên những bộ bàn ghế kiểu
Địa Trung Hải kê dọc vỉa hè.
Trong một quán bên đường, chúng tôi ăn no nê những đặc sản địa phương
như mực nhỏ bằng ba ngón tay nướng vỉ nguyên con, rắc rau mùi xắt
nhuyễn và vắt chanh tươi, hay tôm bỏ lò với nấm mọng nước vỡ ra trong
miệng khi cắn. Fran chỉ cho tôi một món ăn gồm thứ rau xanh rờn là lạ
trên đĩa ông khách ngồi bàn bên cạnh, cười bảo: “Ớt xào đấy, có dám thử
không?”.
Ông khách vui vẻ đưa nguyên đĩa cho chúng tôi sớt ra gần phân nửa, nói:
“Ăn thử đi cho biết”. Sự thân thiện và hiếu khách đó phải chăng cũng là
một yếu tố để Barcelona đứng đầu bảng những thành phố được ưa thích
trên thế giới qua cuộc thăm dò nói trên? Cũng phải thôi, bởi những nhân
vật lỗi lạc Salvador Dali, Joan Miro hay Paolo Picasso đã gắn bó với
Barcelona đến thế, ắt hẳn thành phố này phải có thật nhiều điều níu
chân bất cứ ai.
Cho tới bây giờ, mỗi lần nhìn lại cây nến màu xanh nước biển đắp vỏ sò
ốc thiên nhiên và hộp đựng bút bằng đá có khắc chữ Barcelona mua ở khu
Barri Gotic, tôi lại nhớ đến buổi sáng thức dậy sớm, leo hàng ngàn bậc
thang dẫn lên công viên Parc Guell ở Gracia, thấy sương sớm giăng mờ
khắp những mái nhà ngái ngủ và những ngọn tháp của nhà thờ Sagrada
Familia kiêu hãnh vươn cao.
Nhớ những trạm xe điện ngầm độc đáo với những tác phẩm Nghệ thuật mới
(Art Nouveau) và những bức tranh lớn thật sống động bằng đá mosaic khảm
trên tường. Nhớ những chiếc ghế dài bằng gốm nhiều màu nơi chúng tôi
nghỉ chân ăn bánh mì trong tiếng chim hót ríu rít. Nhớ Nhà thờ lớn với
những cây ngọc lan hoa trắng ngát thơm.
Nhớ buổi tối nằm dài trên cát trắng trong gió biển lồng lộng và tiếng
đại dương rì rầm cạnh bên, nghe mấy anh chàng địa phương ngồi gần đua
nhau hát ầm ĩ những bài hát tiếng Tây Ban Nha thật hội hè... Và tôi lại
hát nho nhỏ bài hát ở Olympic năm nào “Barcelona, Barcelona...”.
(*) Dân Tây Ban Nha vẫn nổi tiếng “làm biếng”, điển hình ngày làm
việc thường bắt đầu từ 10g - 13g, rồi 15g - 16g mới bắt đầu làm việc
lại!
Theo mangdulich.com